iBet uBet web content aggregator. Adding the entire web to your favor.
iBet uBet web content aggregator. Adding the entire web to your favor.



Link to original content: https://www.scribd.com/doc/2259647/Sassanid
Sassanid | PDF

Sassanid

Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 9

Đế quốc Sassanid là tên được dùng cho triều đại Iran thứ tư, và Đế

quốc Ba Tư thứ hai (226-651). Triều đại Sassanid thành lập bởi Ardashir
I sau khi đánh thắng vị vua cuối cùng của Parthia, Artabanus IV và kết
thúc khi Yazdegerd III (632-651), hy sinh trong cuộc chiến 14 năm chống
lại đế quốc hồi giáo. Lãnh thổ đế quốc Sassanid bao gồm lãnh thổ hiện
đại của Iran , Iraq, Armenia, Afghanistan, phía tây của Thổ Nhĩ Kì và một
phần của Syria, Pakistan, Caucasia, Trung Á và Arabia. Trong triều đại
của Khosrau II từ 590 đến 628 thì Ai cập, Jordan, Palestine, Lebanon
cũng phụ thuộc vào đế quốc Sassanid. Người Sassanid gọi đế quốc của
họ là Erānshahr hay “Lãnh địa của người Iran”.
Thời kỳ Sassanid được xem như là một trong những thời kỳ quan
trọng và có ảnh hưởng nhất trong lịch sử Iran. Thời kỳ Sassanid chứng
kiến đỉnh cao của nền văn minh Ba Tư, đế quốc Ba Tư cuối cùng trước
khi bị người Hồi giáo chinh phục. Ba Tư gây ảnh hưởng mạnh đến La
Mã trong suốt thời gian tồn tại của Sassanid, và La mã dành cho ba Tư
một vị thế ngang bằng với mình, như trong bức thư hoàng đế La Mã viết
cho hoàng đế Ba Tư đề là gửi người anh em. Tầm ảnh hưởng của văn
hóa Ba Tư vươn ra ngoài lãnh thổ của họ, tác động đến Tây Âu, châu
Phi, Trung Quốc và Ấn Độ, đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành
của nền nghệ thuật châu Âu và châu Á thời trung cổ.
Với người Hồi giáo thì rất nhiều thứ như văn hóa, kiến trúc hay các kĩ
năng của họ đều lấy phần chính từ Sassanid. Thí dụ như ngôn ngữ
chính thức của Afghanistan chính là ngôn ngữ của Sassanid.

Thời kỳ đầu (205-310):


Vương triều Sassanid được thiết lập bởi Ardashir I (226-241), con
cháu của một dòng thầy tu của nữ thần Anahita ở Istakhr, Persis, người
đã giành được chính quyền ở Persis vào đầu thế kỷ thứ ba sau công
nguyên. Cha của ông ta Papag (hay Papak hoặc Babak ), trước đấy là
người cai trị của một thành phố nhỏ gọi là Kheir, nhưng bị quản lý, vào
năm 205, đã phế truất Gocihr, vua cuối cùng của Bazrangids ( những kẻ
cai trị địa phương phụ thuộc vào Arcasid. Mẹ ông ta, Rodhagh, là con
gái thống đốc Persis. Tên gọi đế quốc được lấy theo tổ tiên của Ardashir
I, Sassan, thầy tu vĩ đại của ngôi đền Anahita.
Những nỗ lực của Papag nhằm gây dựng sức mạnh đã thoát khỏi sự
chú ý của hoàng đế Arcasid là Artabanus IV do ông ta vướng vào cuộc
chiến với anh trai mình là Vologases VI ở Lưỡng Hà. Lợi dung điều đó,
Papag và con tai cả Shapur I mở rộng quyền lực ra toàn Persis. Với cái
chết của Papag năm 220, Ardashir lúc ấy đang cai trị Darabgird, đã tiến
hành cuộc chiến tranh giành với Shapur. Năm 222, trong khi đi gặp em
mình, Shapur bị mái nhà đè chết.
Vào lúc này, Ardashir dời đô về Ardashir-Khwarrah (nay là
Firouzabad). Thành phố dựa vào những dãy núi cao và dễ bề phòng thủ,
trở thành trọng tâm trong những nỗ lực của Ardashir nhằm mở rộng
quyền lực. Thành phố được bao bọc bởi những bức tường cao hình
tròn, có lẽ là sao chép từ Darabgird. Phía bắc thành phố là những cung
điện rộng lớn mà đến nay vẫn còn dấu tích.
Sau khi thiết lập sự thống trị trên toàn cõi Persis, Ardashir I xúc tiến
việc mở rộng lãnh thổ, yêu cầu các hoàng tử của xứ Fars trung thành,
kiểm soát các tỉnh lân cận như Kerman, Isfahan, Susiana, and Mesene.
Cuộc mở rộng này nhanh chóng thu hút sự chú ý của Artabanus IV
(216–224). Artabanus IV ra lệnh cho thống đốc của Khuzestan tấn công
chống lại Ardashir năm 224 nhưng Ardashir đã chiến thắng. Artabanus
bèn tự thân tiến hành cuộc chiến lần hai cũng trong năm 224. Quân đội
hai bên đụng độ ở Hormizdeghan và Artabanus tử trận. Ardashir I tiếp
tục xâm lược các tỉnh phía tây và đụng độ với Parthia. Năm 226, ông
đăng quang ở Ctesiphon như là kẻ thống trị toàn bộ Ba Tư, tự xưng là
Shahanshah, nghĩa là vua của các vị vua ( các vua Sassanid đều dùng
danh xưng này). Các văn bản ghi rằng Adhur-Anahid là nữ hoàng của
nữ hoàng, nhưng mối quan hệ giữa bà và Ardashir chưa được công
nhận. Ông đã kết thúc 400 năm lịch sử của đế quốc Parthia và khởi đầu
cho 4 thế kỷ thống trị của Sassanid.
Trong vòng vài năm tiếp theo, với những cuộc nổi loạn địa phương
xung quanh đế quốc, Ardashir I mở rộng đế quốc mới của mình về phía
đông và tây bắc, chinh phục Sistan, Gorgan, Khorasan, Margiana (nay là
Turkmenistan). Ông ta cũng đoạt được Bahrain và Mosul. Các văn bản
chữ khắc của Sasanid sau đó cũng nhắc tới sự quy phục của vua các xứ
Kushan, Turan, và Mekran với Ardashir, dù rằng trên các bằng chứng về
tiền đúc thì nó giống như họ quy phục con trai của Ardashir là Shapur I
hơn. Tại phương tây, những cuộc tấn công chống lại Hatra, Armenia, và
Adiabene gặp ít thành công hơn.
Con trai Ardashir I là Shupar I (241-272), mẹ của ông ta có thể là con
gái của Artabanus hay một thành viên của dòng tộc Suren, tiếp tục các
cuộc chinh phạt, đánh chiếm Bactria và Kushan, đồng thời thực hiện các
chiến dịch nhằm vào La Mã. Tiến sâu vào lãnh thổ La Mã, Shapur I
chiếm được Antiochia ở Syria (năm 253 hay 256) và đánh bại những
hoàng đế La Mã Gordian III (238–244), Philip the Arab (244–249), and
Valerian (253–260). Valerian bị bắt sau trận Edessa, một cơn chấn động
khủng khiếp và là nỗi nhục không thể gột rửa của người La Mã. Để kỷ
niệm chiến thắng Shapur I cho khắc những tượng đá ở Naqsh-e
Rostam, ví dụ như là Bishapur. Khoảng từ 260 đến 263, Shapur I mất
một số lãnh thổ mới chinh phục vào tay Odaenathus, đồng minh của La
Mã.
Shapur I có những kế hoạch phát triển. Ông cho xây dựng nhiều
thành phố, để giải quyết dân di cư từ những lãnh thổ La Mã. Trong số
này có cả người Cơ Đốc giáo, họ có thể sinh hoạt tôn giáo theo luật của
Sassanid. Hai thành phố Bishapur và Nishapur được đặt tên theo ông.
Shapur I rất coi trọng đạo Mani (tôn giáo cổ của Ba Tư). Ông bảo vệ đạo
Mani và gửi nhiều nhà truyền giáo ra nước ngoài. Shapur I kết bạn với
một giáo sĩ Do Thái ở Babylon tên là Shmuel. Tình bạn này có lợi cho
cộng đồng Do Thái và nó làm trì hoãn các đạo luật chống lại dân Do
Thái.
Các vị vua sau đó lại đi ngược với chính sách tôn giáo của Shapur I.
Kẻ kế vị ông Bahram I (273-276) ra lệnh trừng phạt nhuãng ai đi theo
đạo Mani. Ông bắt giam Mani và ra lệnh giết.
Bahram II (276-293) đi theo con đường của người cha. Ông là một
người cai trị yếu kém, đã để mất một số vùng đất ở phía tây vào tay
hoàng đế La Mã Carus (282-283). Trong triều đại của ông, hầu hết
Armenia sau gần nửa thế kỷ thuộc về Ba Tư đã phải nhượng lại cho
Diocletian (284–305).
Những kẻ kế vị Bahram III (chỉ cai trị trong năm 293) và Narseh (293–
302) lao vào một cuộc chiến khác với La Mã. Sau chiến thắng trước
hoàng đế Galerius (305–311) gần Callinicum ở Euphrates năm 296,
Narseh bị đánh bại trong một trận phục kích khi mà ông ở hậu cung ở
Armania năm 297. Trong hiệp ước chấm dứt chiến tranh, Sassanid chấp
nhận nhường lại các vùng đất phía tây sông Tigris và hứa không can
thiệp vào Armenia và Georgia. Cùng với thất bại này, Narseh nhường
ngôi năm 301 và chết sau đó một năm. Con trai Narseh là Hormizd II
(302–309) kế vị. Mặc dù Hormizd II đã dẹp được các cuộc nổi loạn ở
Sistan và Kushan nhưng ông vẫn không kiểm soát được giới quý tộc.
Ông bị giết trong một cuộc đi săn năm 309.

Thời kỳ hoàng kim đầu tiên (309-379):


Sau cái chết của Hormixd II, dân Arab từ phương nam xâm nhập và
đánh chiếm các thành phố, thậm chí họ còn tấn công Fars, nơi khai sinh
ra các vị vua của Sassanid. Trong khi đó, giới quý tộc Ba Tư đã sát hại
con trai cả của Hormizd, làm mù người con thứ hai và giam cầm người
con thứ ba (sau này thoát được đến La Mã). Ngai vàng được dành cho
người con chưa được sinh ra của một trong các bà vợ của Hormizd II.
Có thể nói Shapur II (309-379) là vị vua duy nhất trong kịch sử lên ngôi
khi vẫn nằm trong bụng mẹ. Khi nhà vua còn trẻ, đế quốc nằm trong tay
thái hậu và quý tộc, đến khi trưởng thành Shapur tiếp nhận quyền lực và
nhanh chóng chứng tỏ mình là một vị vua năng động và hiệu quả.
Đầu tiên Shapur II đưa quân xuống phương nam giao chiến với
người Arab. Quân đội của ông không đông nhưng rất có kỷ luật, và ông
đã thắng, bảo vệ an toàn cho lãnh thổ đế quốc. Sau đó Shapur II gây
chiến với La Mã. Tuy nhiên sau khi vây hãm Singara thì Shapur II phải
ngừng tấn công do những cuộc đột kích dọc biên giới phía đông của dân
du mục. Những cuộc tấn công này đe dọa Transoxiana, một vùng đất
chiến lược để kiểm soát con đường tơ lụa. Hơn nữa Shapur II không có
đủ quân để bảo vệ những vùng đất vừa chiếm được. Thế nên Shapur II
đã ký hòa ước với hoàng đế La Mã Constantius II (353–361), hai bên
đồng ý không xâm phạm lãnh thổ của nhau trong một khoảng thời gian.
Shapur II đưa quân về phía đông, giao tranh với dân du mục tại
Transoxiana. Ông đã đánh bại kẻ thù, thu phục các bộ lạc Trung Á, đưa
các vùng đất của họ sát nhập vào lãnh thổ của đế quốc Sassanid. Cuộc
chinh phục hoàn tất sau khi ông chiếm được Afghanistan. Nền văn hóa
và nghệ thuật của Sassanid nhờ đó đã xâm nhập vào Turkistan, lan rộng
tới tận Trung Hoa. Shapur II cùng với vua của dân du mục Grumbates
tiến hành cuộc chiến với La Mã lần thứ hai vào năm 359. Lần này với lực
lượng hùng mạnh và sự trợ giúp của dân du mục, Shapur II đã giành
chiến thắng áp đảo. Tổng cộng có 5 tỉnh của La mã phải nhượng lại cho
Sassanid sau khi chiến tranh kết thúc.
Shapur II theo đuổi một chính sách tôn giáo hà khắc. Ông cho đàn áp
Cơ Đốc giáo, hành động này nhằm đối lập với hoàng đế La Mã
Constantine (324–337) là người ủng hộ Cơ Đốc giáo. Giống như Shapur
I, Shapur II có thiện cảm với người Do Thái.
Khi Shapur II chết, đế quốc Sassanid hùng mạnh hơn bao giờ hết.
Các kẻ thù ở phía đông đều đã bị dẹp còn Armenia thì phải thần phục đế
quốc.

Thời kỳ trung gian (379-498):


Từ cái chết của Shapur II cho đến lễ đăng quang của Kavadh I (488–
531), Sassanid là một đế quốc ổn định với vài cuộc chiến với đế quốc
Byzantine. Trải qua các triều vua, chính sách tôn giáo của Sassanid đã
thay đổi. Mặc dù có những vị vua yếu kém nhưng hệ thống quản lý được
thiết lập dưới thời Shapur II vẫn vận hành hiệu quả.
Sauk hi Shapur II chết năm 379, quyền lực được trao cho Ardashir II
(379–383), con trai vua xứ Kushan và con trai của ông ta Shapur III
(383-388). Ardashir II đã không thể thay thế được anh trai của mình, còn
Shapur III thì lại quá nhu nhược. Bahram IV (388–399) mặc dù không vô
dụng như cha mình nhưng cũng không làm được cái gì cả. Thời gian
này Armenia bị chia cắt bởi hiệp ước giữa La Mã và Sassanid. Sassanid
kiểm soát phần lớn trong khi La Mã chỉ nắm được một vùng đất nhỏ phía
tây.
Con trai Bahram IV là Yazdegerd I (399–421) thường được so sánh
với Constantine I. Ông ta là người mạnh mẽ và khéo léo. Yazdegerd I thi
hành chính sách khoan dung và tự do tôn giáo. Ông ta chấm dứt việc
đàn áp Cơ Đốc giáo, thậm chí còn trừng phạt những quý tộc và thầy tu
đàn áp Cơ Đốc giáo. Triều đại của Yazdegerd I khá yên bình, ông ta duy
trì một nền hòa bình với La Mã, thậm chí còn bảo vệ cho Theodosius II
(408–450). Ông ta cũng cưới một công chúa Do Thái và sinh một người
con trai tên là Narsi.
Bahram V (421–438) là một trong những vị vua Sassanid nổi tiếng
nhất và là anh hùng trong thần thoại. Những thần thoại này thậm chí vẫn
tồn tại khi đế quốc chịu sự tàn phá của người Arab. Bahram V, được biết
đến nhiều hơn với cái tên Bahram-e Gur, lên ngôi sau cái chết bất ngờ
của Yazdegerd I (có thể bị ám sát), là kẻ đối lập với giới quý tộc có sự
ủng hộ của al-Mundhir, vị vua người Arab ở al-Hirah. Mẹ của Bahram V
là Soshandukht, con gái của Exilarch, người đứng đầu cộng đồng Do
Thái ở Babylon. Năm 427 ông ta đánh bại cuộc xâm lược của bộ lạc
Hephthalites ở phía đông, mở rộng ảnh hưởng ở Trung Á. Chân dung
ông ta được khắc trên các đồng tiền ở Bukhara (nay là Uzbekistan).
Bahram V phế truất vua Armenia và đặt nó thành một tỉnh của Sassanid.
Có nhiều câu chuyện truyền miệng nổi tiếng về Bahram V, kể về sự
dũng cảm của ông và những chiến thắng trước La Mã, Thổ, Ấn Độ, châu
Phi, về những cuộc phiêu lưu tình ái và những chuyến đi săn của ông.
Người ta gọi ông là Bahram-e Gur, gur có nghĩa là lừa rừng, con vật săn
ưa thích của nhà vua. Bahram V đã giành được ngai vàng sau cuộc đấu
đá với anh em của mình và ông dành nhiều thời gian để chiến đấu với
ngoại bang. Nhưng chính các cuộc đi săn và các bữa tiệc mới làm ông
nổi tiếng trong mắt các quý cô và dân chúng. Trong khoảng thời gian trị
vị của ông, các tác phẩm văn học xuất sắc nhất được viết ra và các bản
nhạc trứ danh được soạn. Các môn thể thao như polo (kiểu như cưỡi
ngựa đánh bong) trở thành thú vui của hoàng gia, được lưu truyền cho
đến ngày nay ở nhiều vương quốc.
Con trai Bahram V là Yazdegerd II (438-457) chỉ là một người ôn hòa,
nhưng khác với Yazdegerd I, ông ta có chính sách tôn giáo cứng rắn,
đàn áp các tôn giáo thiểu số, trong đó có Cơ Đốc giáo.
Ngay khi lên ngôi, Yazdegerd II đã tập hợp một đội quân đa quốc gia,
bao gồm cả Ấn Độ để tấn công Đông La Mã. Người La Mã bị bất ngờ.
Hoàng đế Byzantine là Theodosius II muốn hòa bình, đã gửi viên tướng
Aspar tới doanh trại của Yazdegerd II. Trong quá trình đàm phán, cả hai
đế quốc đều hứa sẽ không xây dựng thêm các thành lũy ở khu vực biên
giới. Tuy nhiên Yazdegerd II đã không đòi hỏi gì them vì những cuộc tấn
công của Kidarite vào lãnh thổ của mình ở Parthia và Khwarezmia.
Yazdegerd II tập trung quân đội ở Neishabur năm 443 và giao chiến với
Kidarite. Sau nhiều trận chiến, cuối cùng ông đã tiêu diệt được quân
Kidarite và đuổi họ về bên kia sông Oxus năm 450.
Trong chiến dich ở mặt trận phía đông, Yazdegerd II nghi ngờ một số
người Cơ Đốc trong quân đội và trục xuất họ. Ông tiến hành đàn áp Cơ
Đốc giáo và giới hạn phạm vi của người Do Thái. Con trai thứ của ông là
Hormizd III (457–459) nối ngôi. Nhưng Hormizd III phải chiến đấu với
anh trai mình là Peroz, người được giới quý tộc ủng hộ và với
Hephthalite ở Bactria. Năm 459 Hormizd III bị Peroz giết chết.
Vào đầu thế kỷ 5, Hephthalite (người Hung trắng) và các bộ lạc khác
tấn công Ba Tư nhưng bị Bahram V và Yazdegerd II đánh đuổi. Cuối thế
kỷ 5, người Hung quay trở lại và đánh bại Peroz (457-484) năm 483. Họ
đã chiếm các vùng đất phía đông trong hai năm và yêu cầu các khoản
cống nạp lớn trong các năm sau đó.
Đế quốc rơi vào hỗn loạn. Peroz đã cố gắng đẩy lui Hephthalite,
nhưng lại bị rơi vào trận phục kích trên hoang mạc và bị giết. Hephthalite
tấn công Heart. Một quý tộc thuộc dòng họ Karen, Zarmihr (hay Sokhra)
đx cố gắng cứu vãn. Ông đưa Balash, một người em của Peroz lên ngôi.
Balash là một người rộng lượng, đã nhân nhượng với đạo Cơ Đốc
nhưng lại không làm được gì trước kẻ thù. Sau bốn năm, Balash bị phế
truất, cháu của ông là Kavadh I (488-531) lên ngôi.
Kavadh I ủng hộ thuyết cộng đồng của Mazdak, con trai của Bamdad,
yêu cầu người giàu nên chia sẻ vợ và của cải với người nghèo. Ý định
này bị tầng lớp quý tộc ngăn cản. Họ lật đổ ông và giam ông ở Susa. Em
trai ông là Djamasp (Zamaspes) nối ngôi. Năm 498, Kavadh I trốn thoát
và được người Hung Trắng che chở.
Djamasp (496–498) được giới quý tộc đưa lên ngôi. Ông là một vị
vua tốt, đã giảm thuế cho nông dân và dân nghèo. Triều đại của ông kết
thúc khi Kavadh I dẫn đầu một đội quân đông đảo do vua Hephthalite
giúp đỡ tiến về thủ đô.

Thời kỳ hoàng kim thứ hai (498-622):


Với sự ủng hộ của Hephthalite, Kavadh I gây chiến với La Mã. Năm
502 ông chiếm được Theodosiopolis (Erzurum) ở Armenia, năm 503
chiếm Amida (Diarbekr). Năm 525, ông ta đàn áp khởi nghĩa ở Lazica và
chiếm Georgia. Nưm 530 ông đem quân tấn công La Mã ở Daras. Quân
La Mã do tướng Belisarius chỉ huy. Mặc dù áp đảo về quân số nhưng
quân Sassanid vẫn bị bại trận. Tuy nhiên Kavadh I đã có sự giúp đỡ của
vua al-Mundhir IV ibn al-Mundhir ở Lakhmid đã phản công giành thắng
lợi hai lần vào các năm 530 ở Nisbis và 531 ở Callinicum. Mặc dù
Kavadh I chưa thoát khỏi rang buộc với Hephthalite nhưng ông vẫn
thành công trong việc cai trị đất nước và chiến đấu với Đông La Mã.
Khosrau I (531-579) là vị vua được ca tụng nhiều nhất. Ông rất nổi
tiếng với một loạt cải cách về hệ thống quan lại cũng như thuế má, làm
cho đất nước hưng thịnh và quốc khố đầy ắp. Ông phát triển một đội
quân các hiệp sĩ được triều đình chi trả và trang bị, trung thành với triều
đình hơn là với các lãnh chúa địa phương.
Cho dù hoàng đế La Mã Justinian I (527–565) đã trả 400000 đồng tiền
vàng để đổi lấy hòa bình nhưng Khosrau I vẫn xâm lược Syria năm 540.
Năm 565 Justinian I chết và Justin II (565–578) lên thay. Ông kiên quyết
chặn đứng quân Arab quấy phá ở Syria. Justin II lợi dụng cuộc nổi loạn
ở Armenia để ngừng trả tiền cho Khosrau I trong việc phòng thủ
Caucasus. Người Armenia hân hoan chào đón đồng minh và gửi quân
tới tấn công Nisibis năm 572. Tuy nhiên sự bất đồng của các tướng lĩnh
La Mã khiến cuộc tấn công không được hưởng ứng, ngoài ra nó còn
khiến quân Armenia bị quân Sassanid vây hãm ở Daras. Cuộc nổi loạn ở
Armenia cuối cùng bị dập tắt.
Năm 570, Mard-Karib, người anh lai của vua Yemen nhờ Khosrau I
can thiệp. Khosrau I bèn cho tướng Vahriz đem quân đến tấn công kinh
đô San'a'l. Saif, con trai của Mard-Karib lên ngôi. Nhờ đó Sassanid kiểm
soát được giao thương trên biển với phương đông. Sau đó một vương
quốc phía nam Arab chống lại Sassanid. Sassanid lại động binh năm
598 và biến vùng đất phía nam Arab thành tỉnh của Sassanid, cho đến
tận sau thời của Khosrau II.
Triều đại Khosrau I chứng kiến sự lớn mạnh của các lãnh chúa,
những người đóng vai trò xương sống trong việc cai trị tỉnh lị và hệ thống
thuế. Khosrau I là một nhà xây dựng vĩ đại, ông đã trang hoàng thủ đô
của mình, cho xây nhiều thành phố mới. Ông cho xây dựng lại các kênh
đào và kho bãi bị phá hủy trong chiến tranh. Ông coi trọng việc củng cố
biên giới và dùng các bộ lạc để ngăn chặn ngoại xâm. Ông khá khoan
dung với các tôn giáo, bản thân con trai ông cũng là tín đồ Công giáo.
Sau Khosrau I, Hormizd IV (579-590) nối ngôi. Hormizd IV là một
người cai trị mạnh mẽ, duy trì sự thịnh vượng được thiết lập bởi những
người đi trước. Trong thời gian triều đại của Khosrau II (590-628), cuộc
nổi loạn của tướng Bahram Chobin (đối thủ của vua Bahram VI) đưa đế
quốc vào trong cơn khủng hoảng, nhưng nó không tồn tại lâu. Khosrau II
nhanh chóng tái lập quyền lực của mình. Tận dụng một nội chiến ở đế
quốc Byzantine, Khosrau II thực hiện một xâm lược qui mô lớn, với
mong muốn tái lập lại đường biên giới của triều đại Achaemenid ngày
xưa (đế quốc Ba Tư đầu tiên). Mong ước này gần như đã hoàn thành khi
Jerusalem và Damascus thất thủ, Ai cập rơi vào tay Sassanid ngay sau
đó. Vào năm 626 Constantinople cũng bị bao vây bởi các cánh quân
Slavic và Avar được hỗ trợ bởi Ba Tư. Điểm đáng chú ý của cuộc mở
rộng này là song song với nó là một sự nở hoa của nghệ thuật , âm
nhạc, và kiến trúc Ba Tư. Năm 622, đế quốc Byzantine đứng trước nguy
cơ sụp đổ và biên giới của đế quốc Achaemenid được khôi phục.

Sự sụp đổ (622-651):
Mặc dù đạt nhiều thắng lợi to lớn, chiến dịch của Khosrau II thực tế
lại đè nặng lên quân đội Ba Tư và tiền thuế của nhân dân. Hoàng đế
Byzantine Heraclius (610–641) quyết định thay đổi chiến thuật. Ông ta
độ phá vòng vây khỏi thủ đô và giong thuyền vượt Biển Đen tấn công
vào hậu phương Ba Tư. Với sự trợ giúp của Khazars và các cánh quân
Thổ, Heraclius đã giành nhiều chiến thắng, tàn phá Sassanid đang kiệt
quệ sau 15 năm chiến tranh. Trận đánh quyết định diễn ra ở Nineveh,
quân Byzantine (không có hỗ trợ của Khazars) đã đánh bại quân Ba Tư
của tướng Rhahzadh. Heraclius hành quân qua Lưỡng Hà, miền tây Ba
Tư đến cướp phá Takht-e Soleyman và cung điện Dastugerd. Tại đây
ông nhận được thong tin về vụ ám sát Khosrau II.
Cái chết của Khosrau II dẫn tới một cuộc nội chiến. Sassanid trải qua
một thời kỳ hỗn loạn với 12 vị vua trong vòng 14 năm. Đất nước suy yếu.
Quyền lực nằm trong tay các vị tướng và Sassanid không bao giờ khôi
phục được sức mạnh của mình.
Mùa xuân năm 632, cháu của Khosrau I là Yazdegerd III lên ngôi.
Trong chính năm đó những đội quân Arab đầu tiên đã đột kích vào lãnh
thổ Ba Tư. Những năm tháng chiến tranh liên miên đã bào mòn cả
Byzantine lẫn Ba Tư. Sassanid bị khánh kiệt do kinh tế suy thoái, thuế
má nặng nề, tôn giáo hà khắc, các tầng lớp xã hội bất mãn, quyền lực
của lãnh chúa địa phương tăng cao. Những điều này khiến cho cuộc
xâm lăng của Arab thuận lợi.
Sassanid không chống trả nổi trước sức ép của quân Arab.
Yazdegerd III chỉ là một cậu bé, không thể ngăn chặn đất nước rộng lớn
bị tan rã thành các quốc gia nhỏ. Trong khi đó Byzantine cũng bị Arab đe
dọa nhưng đã đứng vứng được. Năm 634 quân Sassanid và quân Arab
Hồi giáo đụng độ ở Bridge. Thắng lợi thuộc về Sassanid nhưng người
Arab không chùn bước. Không lâu sau đạo quân của Khalid ibn Walid
tràn tới. Khalid ibn Walid là người được nhà tiên tri Muhammad tin tưởng
giao cho lãnh đạo quân Arab. Tại chiến trường al-Qādisiyyah năm 637,
quân Hồi giáo đánh thắng đội quân đông đảo của tướng Rostam
Farrokhzad và bao vây Ctesiphon. Yazdegerd III bỏ chạy và Ctesiphon
thất thủ. Người Arab thu lấy tài nguyên phục vụ cho mình. Khi đất nước
chưa bị chia cắt, các hiệp sĩ Asawaran (Azatan) có thể đánh bại được kẻ
thù, nhưng họ lại chưa một lần được triệu tập. Mọi việc xảy ra quá
nhanh. Các thống đốc Sassanid tập hợp quân đội của mình nhưng họ đã
bị tiêu diệt trong trận Nihawānd. Đế quốc Sassanid gần như không thể
cứu vãn.
Sauk hi nghe tin về thất bại ở Nihawānd, Yazdgerd III bỏ chạy về
phương bắc và bị ám sát bởi một chủ cối xay gió ở Merv cuối năm 651.
Trong khi đó các úy tộc ở Trung Á góp phần lớn trong việc truyền bá văn
hóa và ngôn ngữ Ba Tư tại các vùng đất của họ và thành lập vương triều
đầu tiên của người Iran bản xứ Samanid, tiếp tục giữ vững truyền thống
và văn hóa Ba Tư trước cuộc xâm lăng của người Hồi giáo.
Đế quốc Sassanid sụp đổ và hầu hết lãnh thổ rơi vào tay các vương
quốc Hồi giáo. Tuy nhiên nhiều thành phố đã đứng lên chống lại như
Rayy, Isfahan và Hamadan. Dân chúng địa phương dần dần chấp nhận
đạo Hồi, một phần vì bị bắt ép trong cuộc xâm lược, phần vì những
người không theo Hồi giáo phải trả thêm những khoản thuế đặc biệt.
Trong cuộc xâm lược này, Viện hàn lâm Gundishapur và các thư viện bị
phá hủy, thiêu rụi. Hầu hết văn tự của người Sassanid bị biến mất.

Quân đội:
Quân đội Sassanid không quá khác với thời Achaemenid. Thay đổi
quan trọng nhất là việc từ bỏ chiến xa và sự phát triển của tượng binh.
Có bốn loại quân chính là tượng binh, kỵ binh, cung binh và bộ binh.
Xương sống của quân đội Sassanid chính là kỵ binh nặng, đó là lực
lượng có ảnh hưởng nhất. Người La Mã, Arab và Thổ đều học hỏi chiến
thuật kỵ binh của Sassanid. Trong các cuộc chiến với Parthia và sau này
là Sassanid người La Mã đã nhận ra thế mạnh của kỵ binh nặng và họ
quyết định tổ chức cho mình một đội quân tương tự.
Shapur II đã cải cách quân đội bằng việc trang bị cho kỵ binh nặng
hơn và có hiệu quả hơn. Những người lính được mặc chiếc áo giáp sắt
dày che chắn toàn bộ cơ thể, làm họ trong giống những pho tượng sắt di
động. Vũ khí là thương dài và kiếm hay gậy. Có những hình khắc đá mô
tả kỵ binh Sassanid ở Taq- E Bostan.
Kỵ binh nặng có hai loại: Clibanarii và Cataphract. Hai loại này được
trang bị mũ sắt, giáp dài, giáp che ngực, áo giáp, bao tay sắt, thắt lưng,
giáp che đùi, dùng kiếm, thương, có cung với 30 mũi tên và giáp cho
ngựa.
Kỵ binh nặng được hỗ trợ bởi kỵ binh nhẹ, cung binh và tượng binh.
Chiến thuật của Sassanid thường là cho cung binh và tượng binh bắn
tên xối xả, mở đường cho kỵ binh ập vào.
Bộ binh Sassanid được trang bị giáp nhẹ, trong một số trận đánh thì
bộ binh nặng được triển khai. Lực lương bộ binh nặng này ngang ngửa
với bộ binh La Mã. Các vùng Daylam và Sogdiana của Sassanid rất nổi
tiếng với lực lượng bộ binh hùng mạnh.
Các tay cung của Sassanid là những xạ thủ và cũng là nỗi kinh hoàng
của La Mã. Với sự có mặt của cung binh, bộ binh La Mã hiếm khi tiến
lên được.
Không giống Parthia, Sassanid chú trọng học hỏi các phương pháp
chế tạo các công cụ như máy bắn đá, xe ram hay ballista dùng để công
cũng như thủ thành.
Ngoài ra còn có lực lượng các hiệp sĩ Azadan có từ thời Parthia. Họ
đi theo nhà vua trong các cuộc chiến, chiến đấu với tinh thần và kỷ luật
tuyệt vời.

You might also like