iBet uBet web content aggregator. Adding the entire web to your favor.
iBet uBet web content aggregator. Adding the entire web to your favor.



Link to original content: https://vi.wikipedia.org/wiki/Belize
Belize – Wikipedia tiếng Việt Bước tới nội dung

Belize

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Belize
Quốc kỳ Huy hiệu
Bản đồ
Vị trí của Belize
Vị trí của Belize
Tiêu ngữ
Sub umbra floreo
(tiếng Latin: Ta thăng hoa dưới bóng mát)
Quốc ca
Land of the Free (Xứ sở của dân tự do)
Hoàng ca: God Save the King (Chúa phù hộ Quốc vương)
Hành chính
Chính phủQuân chủ lập hiến đơn nhất
Quân chủ
Toàn quyền
Thủ tướng
Charles III
Froyla Tzalam
Johnny Briceño
Thủ đôBelmopan
17°15′B 88°46′T / 17,25°B 88,767°T / 17.250; -88.767
Thành phố lớn nhấtThành phố Belize
Địa lý
Diện tích22.966 km² (hạng 151)
Diện tích nước0,7 %
Múi giờCST (UTC-6)
Lịch sử
Ngày thành lậpTừ Anh
21 tháng 9 năm 1981
Ngôn ngữ chính thứcTiếng Anhtiếng Tây Ban Nha
Dân số ước lượng (2019)408.487 người
Dân số (2010)324.528[1] người
Mật độ14,1 người/km² (hạng 213)
Kinh tế
GDP (PPP) (2017)Tổng số: 3,252 tỷ USD[2]
Bình quân đầu người: 8.399 USD[2]
GDP (danh nghĩa) (2017)Tổng số: 1,829 tỷ USD[2]
Bình quân đầu người: 4.724 USD[2]
HDI (2014)0,715[3] cao (hạng 101)
Đơn vị tiền tệđô la Belize (BZD)
Thông tin khác
Tên miền Internet.bz
Lái xe bênphải

Belize (phát âm tiếng Anh: /bəˈliːz/, phiên âm: Bê-lít'z), trước đây là Honduras thuộc Anh (British Honduras), là một quốc gia ở Trung Mỹ. Belize phía bắc giáp México, tây và nam giáp Guatemala, đông là Vịnh Honduras, một nhánh của biển Caribe. Belize là nước duy nhất ở Trung Mỹ dùng tiếng Anh làm ngôn ngữ chính thức.

Nguồn gốc tên gọi

[sửa | sửa mã nguồn]

Belize nằm ở bắc Trung Mỹ, đông giáp biển Caribbean. Nguồn gốc tên nước có hai cách giải thích:

Tên nước và cố đô (Thành phố Belize cũng là thành phố lớn nhất Belize) đều lấy từ tên con sông chính Belize chảy trong lãnh thổ. Theo tiếng Pháp, "balise" mang nghĩa "tháp đèn" hay "phao nổi". Một thuyết khác cho rằng, thành phố được xây dựng trên sông Wallis, tên sông này lấy từ tên nhà thám hiểm Scotland là Peter Wallace chuyển thành, ông đến đây vào năm 1610 và muốn chiếm cả vùng này. Do trong tiếng Tây Ban Nha không có chữ cái "w", từ đó "Wallis" chuyển thành "Vallis", đọc ra thành "Balis" hay "Belice".

Năm 1638, một hải tặc ScotlandPeth Valiz đến và chiễm lĩnh vùng này. Về sau, người ta lấy tên của hải tặc này đặt cho vùng, từ đó chuyển thành tên nước là "Belize".

Cư dân đầu tiên ở đây là người Maya, thế kỷ XVI, trở thành thuộc địa của Tây Ban Nha. Thế kỷ XVII, người Anh xâm nhập vào. Năm 1862, Anh chính thức tuyên bố Belize là thuộc địa của mình, gọi là "Honduras". Ngày 1 tháng 1 năm 1964, thực hiện tự trị nội bộ, trở thành thành viên trong Khối Liên hiệp Anh. Năm 1973, đổi thành "Belize thuộc Anh". Ngày 21 tháng 9 năm 1981, giành độc lập.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]
Toàn cảnh Honduras năm 1914
Toàn cảnh Honduras năm 1914

Bộ tộc Maya là nhóm người nguyên thủy sinh sống ở Belize thuở trước. Nền văn hóa Maya bắt đầu từ năm 1500 trước Công nguyên và phát triển rực rỡ ở Belize đến khoảng thế kỷ X thì tàn dần.

Đến thế kỷ XVII thì người Âu châu đến lập nghiệp khởi đầu với các nhóm cướp biển và thủy thủ gốc Anh.

Lợi dụng sự yếu kém của chính quyền thuộc địa Tây Ban Nha không kiểm soát được khu vực này, thị trấn Belize thành hình và dưới sự che chở của Hải quân Anh và nghiễm nhiên biến thành thuộc địa của Anh. Dân Anh tiến hành việc phá rừng đẵn gỗ, như gỗ nhạc ngựa (mahogany) cùng các lâm sản làm thuốc nhuộm để cung cấp thị trường Âu châu. Năm 1763, chính quyền Guatemala thuộc Tây Ban Nha nhượng bộ và thỏa hiệp cho phép người Anh khai thác lâm sản nhưng vẫn không chịu công nhận quyền định cư. Đây là mầm mống tranh chấp lãnh thổ giữa Belize và Guatemala cho đến nay. Năm 1871, thì Luân Đôn chính thức sáp nhập Belize dưới tên "British Honduras" là lãnh thổ hải ngoại thuộc Anh.

Năm 1964, Luân Đôn ban cho British Honduras thể chế thuộc địa tự trị. Cũng vào thập niên 1960 sau trận bão Hattie tàn phá thủ phủ Belize, chính phủ xúc tiến việc thiên đô sâu vào nội địa. Belmopan ra đời và đến năm 1970 thì các công sở được chuyển về Belmopan, tức thủ đô mới. Năm 1973, chính phủ Anh mới đổi tên xứ British Honduras thành "Belize" và đến 21 tháng 9 năm 1981 thì trao độc lập cho xứ thuộc địa cuối cùng trên lục địa châu Mỹ này.

Ngay từ lúc đầu Belize đã phải đối diện vấn đề tranh chấp lãnh thổ với nước lân bang Guatemala. Nguyên là Guatemala không công nhận sự hiện hữu của Belize và đã từng tuyên bố chủ quyền trên một phần hay toàn phần lãnh thổ Belize. Xét đến năm 2007 vụ tranh chấp biên giới vẫn chưa giải quyết mặc dù đã có nhiều đợt hòa giải qua trung gian bởi các chính phủ Anh, chính phủ Hoa Kỳ, Cộng đồng Caribe, và Tổ chức các Quốc gia châu Mỹ. Vương quốc Anh vẫn duy trì lực lượng quân sự ở Belize theo thỉnh cầu của Belmopan.

Chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Belize theo chế độ quân chủ nghị viện nằm trong Khối Liên hiệp Anh với Quốc vương Anh là nguyên thủ quốc gia, đứng đầu nhà nước thông qua đại diện Toàn quyền. Toàn quyền đại diện cho Quốc vương Anh với tư cách là người cai quản Belize.

Đứng đầu chính phủ là thủ tướng, do Toàn quyền bổ nhiệm.

Cơ quan lập pháp của Belize là quốc hội lưỡng viện. Thượng nghị viện gồm 8 thành viên, nhiệm kì 5 năm, trong đó có 5 thành viên do thủ tướng đề nghị, 2 thành viên do lãnh đao phe đối lập đề cử và thành viên còn lại do Hội đồng tư vấn đề nghị. Hạ nghị viện gồm 29 thành viên, bầu theo phổ thông đầu phiếu, nhiệm kì 5 năm.

Các đảng phái chính gồm có: Đảng Thống nhất nhân dân (PUP), Đảng Dân chủ thống nhất (UDP), và các đảng nhỏ khác.

Với diện tích rừng đáng kể, lâm sản, nhất là gỗ nhạc ngựa là nguồn lợi tức chính của Belize trước thế kỷ XX. Từ năm 1900 trở đi thì nền kinh tế chuyển dần từ lâm nghiệp sang nông nghiệp với các đồn điền trái cây, chuốimía đường cung cấp các mặt hàng xuất cảng. Mía chiếm gần phân nửa tổng lượng xuất cảng trong khi nông nghiệp trồng chuối là nguồn cung cấp công ăn việc làm lớn nhất ở Belize.[4]

Năm 2006 ở thị trấn Spanish Lookout phát hiện được mỏ dầu thô. Sự kiện này tạo tiềm năng phát triển kinh tế[5] nhưng kết quả vẫn còn hạn chế. Ước tính đến năm 2007 thì khả năng sản xuất ở mỏ dầu này chỉ có 3.000 thùng/ngày và lượng dầu xuất cảng chỉ khoảng 1.960 thùng/ngày.

Chính sách kinh tế kiệm ước năm 1997 làm suy giảm mức phát triển. Cán cân mậu thương của Belize không cân đối vì giá thị trường chuối và đường xuống thấp trong khi hàng hóa nhập cảng vượt cao hơn. Hiện trạng ngân sách bội chi cũng làm giảm mãi lực của đồng dollar Belize so với các ngoại kim. Đến năm 1999 thì nền kinh tế khả quan hơn, có dấu hiệu đạt mức tăng trưởng 4% phần vì kỹ nghệ du lịch và xây cất.

Từ khi độc lập đến nay đồng dollar Belize có hối xuất nhất định căn cứ theo đồng Mỹ kim là hai dollar Belize ăn một Mỹ kim.

Tính đến năm 2016, GDP của Belize đạt 1.770 USD, đứng thứ 169 thế giới và đứng thứ 7 khu vực Trung Mỹ.

Địa lý và Khí hậu

[sửa | sửa mã nguồn]

Vùng duyên hải phía bắc của Belize là một bình nguyên thấp, nhiều nơi là bãi lầy, rừng rậm mọc kín. Lui về phía nam là rặng núi Maya với ngọn Doyle's Delight (1124 m) là cao nhất.[6] Hai trong ba con sông lớn nhất trong nước đều xuất phát từ rặng núi này; đó là sông Hondo ở miền bắc và sông Belize ở miền trung. Con sông lớn miền nam, sông Sarstún xuất phát từ Guatemala, chảy ra Vịnh Honduras và là biên giới giữa Guatemala và Belize. Rừng xanh phủ khoảng 60% diện tích quốc gia này nhưng với đà tăng dân số, diện tích rừng mỗi năm mỗi thu hẹp lại.

Great Blue Hole, gần Ambergris Caye.

Ngoài khơi Belize dọc bờ biển là một dải đảo, thổ ngữ gọi là "cayes" và Belize Barrier Reef, rạn san hô lớn nhất Tây Bán cầu.

Khí hậu Belize là khí hậu nhiệt đới: nóng và ẩm. Mùa mưa kéo dài từ Tháng Năm đến Tháng Mười Một, thường có bão thổi từ biển vào, gây lụt lội. Lịch sử Belize từng chứng kiến những trận bão tàn khốc: năm 1931 bão phá sập 2/3 nhà cửa trong Thành phố Belize và giết hơn 1.000 người. Năm 1955 bão Janet biến thị trấn Corozal thành bình địa. Sáu năm sau bão Hattie thổi vào miền trung Belize với sức gió hơn 300 km/h và triều cường gây thiệt hại sâu rộng. Sự kiện đó đã thúc đẩy chính phủ dời thủ đô đến Belmopan sâu trong đất liền.

Miền bắc Belize có vũ lượng trung bình khoảng 1350 mm, trong khi miền nam lượng mưa cao hơn, trung bình là 4500 mm. Vào mùa khô từ Tháng Giêng đến Tháng Tư ở miền bắc vũ lượng tụt xuống 400 mm. Mùa khô ở miền nam ngắn hơn, chỉ kéo dài khoảng ba tháng. Nhiệt độ tùy thuộc vào địa lý và cao dộ. Vùng duyên hải vì có gió mậu dịch từ biển điều hòa nên mát hơn. Nhiệt độ trung bình vùng biển là 24 °C-27 °C. Lui vào đất liền nhiệt độ cao hơn đôi chút. Ngoại lệ là cao guyên Mountain Pine Ridge tương đối mát mẻ quanh năm. Nói chung thành phần thay đổi theo từng mùa không phải là nhiệt độ mà là vũ lượng và độ ẩm.

Hành chính

[sửa | sửa mã nguồn]
Bản đồ hành chính Belize

Belize được chia thành 6 khu: Belize, Cayo, Corozal, Orange Walk, Stann Creek, Toledo.

Nhân khẩu

[sửa | sửa mã nguồn]

Dân số Belize hiện vào khoảng 294,385 người. Trong đó, người da trắng lai thổ dân da đỏ tức người Mestizo chiếm 48.7%, người Creole 24.9%, người Maya 10.6%, người Garifuna 6.1%, các dân tộc khác 9.7%. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Anh, ngoài ra còn có tiếng Tây Ban Nha, và các ngôn ngữ khác như tiếng Maya, tiếng Garifuna, tiếng Creole Belize.

Tôn giáo

[sửa | sửa mã nguồn]
Tôn giáo tại Belize (2010)
Tôn giáo tỷ lệ
Công giáo Roma
  
40.1%
Tin lành
  
31.8%
Nhân chứng Jehovah
  
1.7%
Mormon
  
0.4%
Phi Cơ đốc giáo
  
0.1%
Khác
  
9.6%
Không tôn giáo
  
15.6%
Không xác định
  
0.3%

Tự do tôn giáo được đảm bảo ở Belize. Theo điều tra dân số năm 2010,[7] 40.0% dân số của Belizeans là người Công giáo La Mã, 31,7% là người Tin Lành (8,5% Phong trào Ngũ Tuần; 5,5% Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm; 4,6% Anh giáo; 3,8% Mennonite; 3,6% Báp-tít, 2,9% Methodist, 2,8% Nazarene), 1,7% là Nhân chứng Giê-hô-va, 10,2% tuân theo các tôn giáo khác (tôn giáo Maya, tôn giáo Garifuna, Obeah và Myalism, và thiểu số người theo đạo Mặc Môn, Ấn giáo, Phật giáo, Hồi giáo, Baha'is, Rastafarians và khác) và 15,6% xưng là vô thần.

Tuy là một quốc gia Công giáo chiếm đa số (khoảng 49% dân số năm 2000, 57% năm 1991), truyền thống Công giáo đang dần dần bị xói mòn trong những thập kỷ qua bởi sự phát triển của giáo hội Tin Lành, các tôn giáo khác và những người không tôn giáo.[8] Giáo hội Chính thống giáo Hy Lạp đã có mặt tại Santa Elena.[9] Ấn Độ giáo được mang đến bởi hầu hết người nhập cư Ấn Độ.

Giáo dục - Y tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Chương trình giáo dục của Belize bắt buộc là 10 năm. Phần lớn các trường học do các giáo hội điều hành và được Nhà nước đài thọ. Một số trường công dạy miễn phí cho học sinh nghèo. Một số học sinh không thể theo hết bậc tiểu học. Số học sinh vào trung học bị hạn chế và phụ thuộc vào kì thi tuyển sinh quốc gia. Học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học có thể thi vào các trường cao đẳng hoặc đại học.

Y tế Belize có cả hệ thống chữa bệnh công và tư để chăm sóc sức khoẻ toàn dân. Có một bệnh vlện lớn ở Belize City. Ngoài ra mỗi huyện đều có một bệnh viện nhỏ

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Belize Population and Housing Census 2010: Country Report” (PDF). Statistical Institute of Belize. 2013. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 27 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2014.
  2. ^ a b c d “Belize”. International Monetary Fund.
  3. ^ “2015 Human Development Report” (PDF). United Nations Development Programme. 2015. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2015.
  4. ^ Burnett, John (2006). Maya Homeland. employerLarge Oil Field Is Found in Belize; the Angling Begins, 4 tháng 1 năm 2007.
  5. ^ Burnett, John (2006). Maya Homeland. Large Oil Field Is Found in Belize; the Angling Begins, 4 tháng 1 năm 2007.
  6. ^ BERDS Topography
  7. ^ “Belize Demographics Country Profile 2013”. Truy cập 17 tháng 2 năm 2015.
  8. ^ “Bản sao đã lưu trữ” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2013.
  9. ^ http://www.orthodoxchurch.bz/

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]