iBet uBet web content aggregator. Adding the entire web to your favor.
iBet uBet web content aggregator. Adding the entire web to your favor.



Link to original content: http://vi.wikipedia.org/wiki/Catherine_Deneuve
Catherine Deneuve – Wikipedia tiếng Việt Bước tới nội dung

Catherine Deneuve

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Catherine Deneuve
Catherine Deneuve tại Liên hoan phim Cannes năm 2000.
Tên khai sinhCatherine Fabienne Dorléac
Sinh22 tháng 10, 1943 (81 tuổi)
Paris, Pháp
Năm hoạt động1957–đến nay
Hôn nhânDavid Bailey (1965–1972)

Catherine Deneuve (tiếng Pháp IPA: [katʁin dəˈnœv]), sinh ngày 22.10.1943 là nữ diễn viên điện ảnhtruyền hình Pháp, đã đoạt giải César 2 lần, được đề cử cho Giải OscarGiải BAFTA.

Thời niên thiếu

[sửa | sửa mã nguồn]

Deneuve có tên khai sinh là Catherine Fabienne Dorléac, sinh tại Paris, là con gái thứ ba trong số 4 người con gái của diễn viên kịch và điện ảnh Pháp Maurice Dorléac và nữ diễn viên Renée Deneuve.

Deneuve có 3 chị em gái: Danielle Dorléac (sinh năm 1937), nữ diễn viên Françoise Dorléac (sinh năm 1942, chết trong tai nạn xe hơi ngày 26.6.1967) và Sylvie Dorléac (sinh năm 1946).[1]

Sự nghiệp điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Deneuve bắt đầu sự nghiệp điện ảnh lúc 13 tuổi, trong một vai nhỏ ở phim Les Collégiennes (1956), do Roger Vadim đạo diễn. Vai diễn đột phá của bà là trong phim Les Parapluies de Cherbourg của Jacques Demy. Sự đột ngột trở thành ngôi sao của bà dẫn tới các vai diễn sáng chói trong các phim Repulsion (1965) của Roman PolanskiBelle de Jour (1967) của Luis Buñuel. Chính trong các phim này, lần đầu tiên bà đã thể hiện các vai thiếu nữ nguyên mẫu của mình.[2][3] Năm 1967, bà xuất hiện trong phim ca nhạc Les Demoiselles de Rochefort của Jacques Demy, cùng với chị gái, Françoise Dorléac.

Deneuve hoạt động tích cực trong các phim châu Âu trong thập niên 1960 và 1970, và hạn chế xuất hiện trong các phim Mỹ The April Fools (1969) và Hustle (1975). Các vai chính của bà trong thời gian này trong các phim như Tristana (1970, lại với Buñuel) và A Slightly Pregnant Man (1973, đối đầu Marcello Mastrioanni). Trong thập niên 1980, các phim của Deneuve gồm có Le Dernier métro (1980) của François Truffaut', (trong đó bà đoạt một giải César cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất) và The Hunger (1983) của Tony Scott (trong vai ma cà rồng ái nam con gái, cùng đóng vai chính với David BowieSusan Sarandon, một vai mang lại cho bà một nhóm người nữ đồng tính luyến ái và người thô lỗ ủng hộ đáng kể).[4]

Đầu thập niên 1990, Deneuve thu được nhiều sự ca ngợi quốc tế cho các diễn xuất trong nhiều phim, trong đó có phim Indochine (Đông Dương) (1992) (phim này bà đoạt thêm một Giải César cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất và được đề cử cho Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất); và 2 phim của André Téchiné: Ma saison préférée (1993) và Les Voleurs (1995). Năm 1994 bà là phó chủ tịch Ban giám khảo Liên hoan phim Cannes.[5] Năm 1996, Deneuve đã bày tỏ lòng kính trọng đạo diễn đã đưa nàng lên cương vị ngôi sao bằng việc xuất hiện trong phim tài liệu L'Univers de Jacques Demy. Năm 1998, bà lại được hoan nghênh và đoạt Cúp Volpi tại Liên hoan phim Venezia cho diễn xuất trong phim Place Vendôme. Cuối thập niên 1990 Deneuve tiếp tục làm việc đều đặn, và năm 1999 xuất hiện trong 5 phim: Est-Ouest, Le temps retrouvé, Pola X, Belle-mamanLe vent de la nuit.

Năm 2000, Deneuve diễn xuất trong phim Dancer in the Dark (2000) của Lars von Trier song song với nữ ca sĩ người Iceland Björk. Phim này là đề tài cho việc xem xét bình luận đáng kể và đã được bầu chọn đoạt Giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes. Năm 2002, bà cùng đoạt chung Giải Gấu bạc cho Toàn bộ các diễn viên xuất sắc của phim "8 Women" tại Liên hoan phim quốc tế Berlin. Năm 2005, Deneuve xuất bản quyển nhật ký A l'ombre de moi-meme ("Trong bóng của chính tôi", xuất bản bằng tiếng Anh dưới nhan đề Close Up and Personal: The Private Diaries of Catherine Deneuve); trong đó bà viết về các kinh nghiệm của mình khi đóng các phim IndochineDancer in the Dark. Năm 2006, Deneuve đứng đầu Ban giám khảo Liên hoan phim Venezia. Deneuve vẫn tiếp tục làm việc đều đặn, mỗi năm đóng ít nhất 2 hoặc 3 phim.

Nghề nghiệp khác

[sửa | sửa mã nguồn]

Làm người mẫu

[sửa | sửa mã nguồn]

Deneuve được coi như nguồn cảm hứng cho nhà thiết kế trang phục Yves Saint Laurent'; ông ta đã thiết kế trang phục cho bà trong các phim Belle de Jour, La Chamade, La Sirène du Mississippi, LizaThe Hunger.

Deneuve cũng là bộ mặt của hãng nước hoa Chanel No. 5 trong thập niên 1970 và đã tạo ra việc bán vô số nước hoa này ở Hoa Kỳ, đến nỗi báo chí Mỹ, bị quyến rũ bởi vẻ duyên dáng của bà, đã đề cử bà là phụ nữ lịch thiệp nhất thế giới.[6]

Hình ảnh của bà đã được sử dụng để đại diện cho Marianne, biểu tượng quốc gia của Cộng hòa Pháp, từ năm 1985 tới năm 1989. Năm 1992, Deneuve trở thành người mẫu cho mặt hàng chăm sóc da của hãng mỹ phẩm Yves Saint Laurent. Năm 2001, bà được chọn là bộ mặt mới của hãng mỹ phẩm L'Oréal Paris.

Năm 2006, Deneuve trở thành người gợi cảm hứng thứ ba cho loạt M•A•C Beauty Icon. Deneuve và hãng Make-up Art Cosmetics hợp tác chặt chẽ trong bộ sưu tập màu và đã sẵn sàng để bán ở các ở các địa điểm của hãng M•A•C trên khắp thế giới trong tháng 2 năm 2006.

Cuối năm 2007, Deneuve bắt đầu xuất hiện trên các quảng cáo túi đựng hành lý mới của hãng Louis Vuitton.

Kinh doanh

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1986, Deneuve đưa ra loại nước hoa do chính bà sản xuất Deneuve. Bà cũng thiết kế ly thủy tinh, giày dép, đồ nữ trang và thiệp chúc mừng.

Việc từ thiện

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Deneuve được đề cử làm Đại sứ thiện chí UNESCO cho việc bảo vệ di sản phim năm 1994. Ngày 12.11.2003, bà từ chức để phản đối việc đề cử nhà kinh doanh Pháp Pierre Falcone làm đại diện ở Angola, điều đó cho phép ông ta thoát khỏi sự điều tra và truy tố về việc buôn bán vũ khí bất hợp pháp.[7]
  • Deneuve đòi các quyền thuộc về bà khi đại diện Marianne phải được trao cho tổ chức Ân xá Quốc tế.[8]
  • Louis Vuitton đã tặng tiền cho quỹ The Climate Project, do Al Gore đứng đầu, nhân danh Deneuve.[9]
  • Deneuve cũng tham gia các tổ chức Children Action, Children of Africa, Orphelins RoumainsPhóng viên không biên giới.[10]
  • Douleur sans frontiers - Cuối năm 2003, Deneuve thu một chương trình truyền thanh thương mại, khuyến khích quyên góp để chống lại sự đau đớn trên toàn cầu, đặc biệt là các nạn nhân của mìn.[11]
  • Handicap International - Giữa tháng 7 năm 2005, Deneuve cho mượn giọng cho thông điệp thương mại truyền thanh, TV và điện ảnh, lên án việc sử dụng BASM (bom chùm).[12][13]
  • Voix de femmes pour la démocratie (‘’Tiếng nói của phụ nữ ủng hộ dân chủ’’) - Deneuve đọc bản văn "Le petit garçon," của Jean-Lou Dabadie, trên đĩa CD mang tên "Voix de femmes pour la démocratie." Đĩa CD này được bán lấy tiền dùng vào lợi ích của các nữ nạn nhân chiến tranh và trào lưu chính thống đấu tranh cho dân chủ.[14]
  • Deneuve cũng tham dự nhiều việc từ thiện trong dấu tranh chống bệnh AIDS và bệnh ung thư.[11]

Chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Năm 1971, Deneuve ký tên trong Manifesto of the 343 (Manifeste des 343 salopes, Manifest of the 343 bitches). Bản tuyên ngôn này là sự gia nhập của các người ký tên đã thực hiện các việc phá thai bất hợp pháp, và do đó, tự phơi mình ra để chịu hình phạt của luật pháp.[15] Bản nguyên ngôn này được đăng trên báo Le Nouvel Observateur ngày 5.4.1971. Cùng năm, nữ luật sư Gisèle Halimi thành lập nhóm Choisir ("Chọn lựa"), để bảo vệ các phụ nữ đã ký tên vào Bản tuyên ngôn 343.
  • Deneuve tham gia chương trình Ân xá Quốc tế nhằm đòi hủy bỏ án tử hình.
  • Năm 2001, Deneuve gửi một thỉnh nguyện thư do nhóm người ở Pháp tổ chức gọi là "Together Against the death penalty," tới Đại sứ quán Mỹ ở Paris.[16]
  • Tháng 4 năm 2007, Deneuve ký một thỉnh nguyện thư trên Internet phản đối việc đối xử ghét phụ nữ của nữ ứng cử viên tổng thống Pháp của đảng xã hội Ségolène Royal. Trên 8.000 đàn ông và phụ nữ Pháp đã ký thỉnh nguyện thư này, trong đó có nữ diễn viên Jeanne Moreau.[17]

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Deneuve nói lưu loát các tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Anh và ít lưu loát tiếng Đức.[18] Hoạt động trong giờ rảnh rỗi và niềm say mê của bà là vẽ, làm vườn, chụp hình, đọc sách, nghe nhạc, xem phim, thời trang, cổ vật và trang trí.[11]

Deneuve kết hôn với nhà chụp hình David Bailey từ năm 1965 tới năm 1972. Hai người ly dị năm 1972 nhưng vẫn là bạn của nhau. Bà có quan hệ với đạo diễn Roger Vadim, đạo diễn François Truffaut,[19] nam diễn viên Marcello Mastroianni, và nhà tư bản Pierre Lescure của Canal+.[1]

Deneuve có hai người con: nam diễn viên Christian Vadim, với Roger Vadim, và nữ diễn viên Chiara Mastroianni, với Marcello Mastroianni.[1]

Các phim đã tham gia

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Phim Vai diễn Ghi chú
1957 Les Collégiennes (The Twilight Girls) N/A Ghi trên phim là Catherine/Sylvie Dorléac
1960 L'Homme à femmes (Murder by Two) Catherine
Les portes claquent (The Door Slams) Dany
1962 Et satan conduit le bal (And Satan Calls the Turns) Manuelle
Les Parisiennes (Tales of Paris) Sophie Phân đoạn: "Sophie"
Dossier 1413 (Secret File 1413) N/A
1963 Le vice et la vertu (Vice and Virtue) Justine Morand
Vacances portugaises (Portuguese Vacation) Catherine
1964 La Costanza della ragione Lori
Les Parapluies de Cherbourg (The Umbrellas of Cherbourg) Geneviève Emery
Les plus belles escroqueries du monde (The World's Most Beautiful Swindlers) Swindler Phân đoạn: "L'homme qui vendit la Tour Eiffel"
La Chasse à l'homme (Male Hunt) Denise
Un monsieur de compagnie (Male Companion) Isabelle
1965 Repulsion Carole Ledoux
Les Petits chats (Wild Roots of Love) N/A
Das Liebeskarussell (The Daisy Chain) Angela Claasen
La Chant du monde (Song of the World) Clara
1966 La Vie de château (A Matter of Resistance) Marie
Les Créatures (The Creatures) Mylène
1967 Les Demoiselles de Rochefort (The Young Girls of Rochefort) Delphine Garnier
Belle de jour (Beauty of the Day) Séverine Serizy a.k.a. Belle de Jour
1968 Benjamin (The Diary of an Innocent Boy) Anne
La Chamade (Heartbeat) Lucile
Manon 70 Manon
Mayerling Maria Vetsera
1969 The April Fools Catherine Gunther
La Sirène du Mississippi (Mississippi Mermaid) Julie Roussel/Marion Vergano
Tout peut arriver (Don't Be Blue) Người được phỏng vấn
1970 Tristana Tristana
Peau d'Âne (Donkey Skin) La princesse/Peau d'âne
1971 Ca n'arrive qu'aux autres (It Only Happens to Others) Catherine
1972 Liza Liza
Un flic (A Cop) Cathy
1973 L'Evènement le plus important depuis que l'homme a marché sur la lune (A Slightly Pregnant Man) Irène de Fontenoy
1974 Touche pas à la femme blanche (Don't Touch the White Woman!) Marie-Hélène de Boismonfrais
Fatti di gente perbene (Drama of the Rich) Linda Murri
La Femme aux bottes rouges (The Woman with Red Boots) Françoise LeRoi
1975 Zig zig (Zig-Zag) Marie
L'Agression (Act of Aggression) Sarah
Le Sauvage (The Savage) Nelly
Hustle Nicole Britton
1976 Si c'était à refaire (If I Had to Do It All Over Again) Catherine Berger
1977 Anima persa (Lost Soul) Sofia Stolz
March or Die Simone Picard
Casotto (Beach House) Donna del sogno
1978 L'Argent des autres (Other People's Money) Cécile Rainier
1979 Ecoute voir... (See Here My Love) Claude Alphand
Ils sont grands, ces petits (When I Was a Kid, I Didn't Dare) Louise Mouchin
À nous deux (Us Two) Françoise
Courage fuyons (Courage - Let's Run) Eva
1980 Le Dernier métro (The Last Metro) Marion Steiner
Je vous aime (I Love You All) Alice
1981 Le Choix des armes (Choice of Arms) Nicole Durieux
Hôtel des Amériques (Hotel of the Americas) Hélène
1982 Le Choc (The Shock) Claire
1983 L'Africain (The African) Charlotte
The Hunger Miriam Blaylock
1984 Le Bon plaisir Claire Després
Fort Saganne Louise
Paroles et musique (Love Songs) Margaux
1986 Speriamo che sia femmina (Let's Hope It's a Girl) Claudia
Le lieu du crime (Scene of the Crime) Lili Ravenel
1987 Agent trouble Amanda Weber
1988 Fréquence meurtre (Frequent Death) Jeanne Quester
Drôle d'endroit pour une rencontre (Strange Place for an Encounter) France
1991 La Reine blanche Liliane Ripoche
1992 Indochine (Indochina) Eliane
1993 Ma saison préférée (My Favorite Season) Emilie
1994 La Partie d'échecs (The Chess Game) Marquise
1995 Les Cent et une nuits de Simon Cinéma (A Hundred and One Nights) La star-fantasme
O Convento (The Convent) Hélène
1996 Les Voleurs (The Thieves) Marie Leblanc
Court toujours: L'inconnu Marianne Phim truyền hình
1997 Généalogies d'un crime (Genealogies of a Crime) Jeanne/Solange
Sans titre N/A
1998 Place Vendôme Marianne Malivert
1999 Le Vent de la nuit (The Wind of the Night) Hélène
Belle maman (Beautiful Mother) Léa
Pola X Marie
Le Temps retrouvé (Time Regained) Odette de Crecy
Est-Ouest (East-West) Gabrielle Develay
2000 Dancer In The Dark Kathy
2001 Je rentre à la maison (I'm Going Home) Marguerite
Absolument fabuleux (Absolutely Fabulous) Une spectatrice du défilé
The Musketeer The Queen
Le Petit poucet (Tom Thumb) La reine
2002 8 femmes (8 Women) Gaby
Au plus près du paradis (Nearest to Heaven) Fanette
2003 Les Liaisons dangereuses (The Dangerous Liaisons) Marquise Isabelle de Merteuil TV mini-series
Um Filme Falado (A Talking Picture) Delfina
2004 Princesse Marie Marie Bonaparte Phim truyền hình
Rois et reine (Kings and Queen) Mme Vasset
Les Temps qui changent (Changing Times) Cécile
2005 Palais royal! Eugénia
2006 Le Concile de Pierre (The Stone Council) Sybille Weber
Nip/Tuck Diana Lubey Sê-ri TV (1 tập, phát sóng lần đầu 21/11/2006)
Le Héros de la famille (The Family Hero) Alice Mirmont
2007 Après lui (After Him) Camille
Persepolis Mrs. Satrapi, Marjane's mother Giọng nói
Frühstück mit einer Unbekannten (Breakfast With a Stranger) Elegante Dame Phim truyền hình
2008 Un conte de Noël Junon
Je veux voir (I Want to See) Vai chính mình
2008 Mes stars et moi Solange Duvivier (My Stars)
2009 Fille du RER, LaLa Fille du RER Louise (The Girl on the Train)
2009 Cyprien Vivianne Wagner
2009 Bancs publics (Versailles rive droite) La cliente armoire (Park Benches)
2009 Mères et filles Martine (Hidden Diary)
2010 Potiche Suzanne Pujol
2010 L'homme qui voulait vivre sa vie Anne (The Big Picture)
2011 Les Yeux de sa mère Lena Weber (His Mother's Eyes)
2011 Les Bien-aimés Madeleine (The Beloved)
2012 Astérix et Obélix: Au service de sa Majesté Cordelia la reine d'Angleterre Giai đoạn hậu kỳ
2012 As Linhas de Torres Severina Giai đoạn hậu kỳ

Discography

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Souviens Toi De M'oublier (1983)

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Các giải khác

[sửa | sửa mã nguồn]

Các đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Catherine Deneuve at Hollywood.com
  2. ^ Maxine Block & Anna Herthe Rothe, Marjorie Dent Candee, Charles Moritz (1978). Current Biography Yearbook. H.W. Wilson Co. tr. 98. ISBN 9997377028. Catherine Deneuve has also...been called the "ice maiden" because of the aloof and enigmatic personality she has glacially portrayed in such classic art films as Polanski's Repulsion....Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  3. ^ Jones, Alice (ngày 7 tháng 3 năm 2007). “Catherine the great: Deneuve's five finest roles”. The Independent. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2008. The first and most chilling of Deneuve's classic ice-maiden roles." "Deneuve's best-known role.
  4. ^ Sweet, Matthew (ngày 29 tháng 11 năm 2002). “My lips are sealed...In her new film, 8 Women, the French icon Catherine Deneuve shares a kiss with her co-star Fanny Ardant. It's not her favorite part of the movie, she tells MATTHEW SWEET”. The Independent. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2008. she cackles with delight when I ask her if the scene has pleased her army of lesbian fans.... She acquired this following Tony Scott's vampire flick "The Hunger" (1983), in which she played a fanged seductress...who took her sweet time getting to Susan Sarandon's jugular....
  5. ^ “http://toutsurdeneuve.free.fr: 2003 www.imdb.com: Cannes Film Festival 1994”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2009.
  6. ^ Chanel ad campaign, USA 1975
  7. ^ http://toutsurdeneuve.free.fr: 2003 www.gala.fr: Catherine Deneuve resigns from UNESCO
  8. ^ (tiếng Pháp) toutsurdeneuve.free.fr: Politique
  9. ^ Alexander, Hilary (ngày 2 tháng 8 năm 2007). “Environmental fashion”. Daily Telegraph. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2021.
  10. ^ “www.rsf.org: Why we take so much interest in Cuba, by Reporters Without Borders”. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 11 năm 2005. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2005.
  11. ^ a b c “www.gala.fr: Catherine Deneuve Bio”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2009.
  12. ^ www.stopclustermunitions.org: Press Release ATS Genève (SWITZERLAND) 9 tháng 11 năm 2005
  13. ^ (tiếng Pháp) www.vivathlon.tm.fr: HANDICAP INTERNATIONAL ENTRE EN CAMPAGNE CHIC ET CHOC CONTRE LES BOMBES A SOUS-MUNITIONS Lưu trữ 2008-11-14 tại Wayback Machine
  14. ^ www.audible.fr: Voix de femmes pour la démocratie
  15. ^ Text of the Manifesto of the 343 Lưu trữ 2008-10-14 tại Wayback Machine with list of signatories, on the Nouvel Observateur's website (tiếng Pháp)
  16. ^ Coomarasamy, James (ngày 14 tháng 5 năm 2001). “French horrified by execution”. BBC NEWS.
  17. ^ “Thousands sign petition against "misogynous" treatment of Royal”. Europe News on Monsters and Critics. Deutsche Presse-Agentur. 12 tháng 4 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.
  18. ^ www.imdb.com: Catherine Deneuve Biography
  19. ^ Francois Truffaut tại Yahoo! Movies

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Tiền nhiệm:
Mireille Mathieu
Marianne
1985–1989
Kế nhiệm:
Inès de la Fressange