iBet uBet web content aggregator. Adding the entire web to your favor.
iBet uBet web content aggregator. Adding the entire web to your favor.



Link to original content: http://vi.wikipedia.org/wiki/Andriy_Viktorovych_Kuzmenko
Andriy Viktorovych Kuzmenko – Wikipedia tiếng Việt Bước tới nội dung

Andriy Viktorovych Kuzmenko

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Andriy Kuzmenko
Thông tin nghệ sĩ
Tên bản ngữАндрій Кузьменко
Tên gọi khácKuzma Skryabin
Sinh(1968-08-17)17 tháng 8 năm 1968
Sambir, tỉnh Lviv, CHXHCNXV Ukraina, Liên Xô
Mất2 tháng 2 năm 2015(2015-02-02) (46 tuổi)
Lozuvatka, tỉnh Dnipropetrovsk, Ukraina
Thể loạiRock, pop rock, post-punk, synthpop, New Romanticism, dark wave, rave, techno, new wave
Nghề nghiệpCa sĩ, nhạc sĩ, người viết lời bài hát, nhà thơ, nhà văn, người dẫn chương trình, nhà sản xuất âm thanh, diễn viên, người dẫn chương trình phát thanh
Nhạc cụGiọng hát, organ, guitar
Năm hoạt động1983–2015
Hãng đĩaStudiya Leva, Caravan CD, Nova Records, NAC, Boom Records, Atlantik, Real Records, Lavina Music, Moon Records
Cựu thành viênSkryabin, Yulia Lord, Natalia Mogilevskaya, Payushchie Trusy, Plach Yeremiyi, Iryna Bilyk, Druha Rika, Dazzle Dreams

Andriy Viktorovych "Kuzma" Kuzmenko (tiếng Ukraina: Андрі́й Ві́кторович Кузьме́нко; 17 tháng 8 năm 1968 – 2 tháng 2 năm 2015) là một ca sĩ, nhà thơ, nhà văn, người dẫn chương trình truyền hình, nhà sản xuất âm nhạc và diễn viên Ukraina. Ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng Ukraina năm 2020. Ông được biết đến nhiều nhất với vai trò là giọng ca chính của ban nhạc rock Skryabin, được thành lập vào năm 1989. Ông qua đời trong một vụ va chạm giao thông vào ngày 2 tháng 2 năm 2015 tại Lozuvatka, tỉnh Dnipropetrovsk, hưởng dương 46 tuổi.[1][2]

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Andriy Viktorovych Kuzmenko sinh ngày 17 tháng 8 năm 1968, tại Sambir, tỉnh Lviv. Ông là con một trong gia đình. Mẹ ông là giáo viên âm nhạc còn cha ông là kỹ sư. Gia đình ông sau này đã chuyển tới Novoyavorivsk, cũng là nơi ông có công việc đầu tiên. Ngày nhỏ, ông có ước mơ trở thành tài xế xe chở rác. Ông tốt nghiệp ngành âm nhạc và ngành nha khoa. Ông đã theo học ngành nha khoa theo ý của cha mẹ, dù không thích. Ông cũng tích cực tham gia thể thao và từng chơi hai môn phối hợp. Ngày 14 tháng 9 năm 1997, Kuzmenko và vợ là Svitlana đã chào đón sự ra đời của cô con gái duy nhất của họ. Họ đã đặt tên cho cô là Maria Barbara, theo tên của nữ diễn viên Ba Lan Barbara Brylska, một thần tượng thuở nhỏ của Kuzmenko. Ông từng cho rằng vợ ông có những điểm tương đồng với Brylska

Thập niên 2000

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong giai đoạn này, các hoạt động của ông chủ yếu là cùng với Skryabin. Năm 2000, ông bắt đầu đảm nhiệm vai trò người dẫn chương trình trong chương trình diễu hành "Hot Seven", từng được đón nhận mạnh mẽ, được tổ chức cho đến năm 2002. Bắt đầu từ khoảng năm 2003, Kuzmenko trở thành người dẫn chương trình của "Chance" và "Shikanemo" cùng với nữ ca sĩ Natalia Mogilevska. Trong thời gian này, ông đã được trao toàn quyền quản lý ban nhạc Skryabin, và bắt đầu đưa ban nhạc hoạt động theo một hướng mới. Năm 2006, Kuzmenko xuất bản cuốn tự truyện của mình, với tựa đề "Me, Pobeda and Berlin". Cuốn sách đã trở nên nổi tiếng, và đã được tái bản nhiều lần sau đó. Năm 2009, ông thành lập ban nhạc Payushchie Trusy (Singing Pants), cũng như giúp cho dự án "DZIDZIO" được nhiều người biết tới. Cùng năm đó, ông là thành viên ban bầu cử của giải thưởng "Book of the Year B-B-C".

Thập niên 2010

[sửa | sửa mã nguồn]

Cuối tháng 1 năm 2014, Kuzmenko đã phát hành một bài hát về các sự kiện Euromaidan, thể hiện sự ủng hộ đối với nhân dân. Trong chiến tranh Nga – Ukraina, ông đã giúp đỡ quân đội và những người bị thương ở khu vực ATO ở miền đông Ukraina. Tháng 10 năm 2014, ông đã thành lập đài phát thanh qua Internet do ông làm chủ, có tên «S.R.A.K.A.», chuyên phát các bài hát mà ông thường nghe trên xe hơi. Không lâu trước khi vụ tai nạn xảy đến, Kuzmenko từng chỉ trích mạnh mẽ chính phủ hiện tại của Ukraina trong các cuộc phỏng vấn và cáo buộc các viên chức chính quyền vì hành vi tham nhũng.[3][4]

Qua đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 2 tháng 2 năm 2015, vào khoảng 8:20, Kuzmenko đã qua đời trong một tai nạn xe hơi gần làng Lozuvatka, thuộc huyện Kryvyi Rih, tỉnh Dnipropetrovsk. Bộ phận báo chí của Cục Kiểm định ô tô Nhà nước thuộc Bộ Nội vụ Ukraina đã đưa tin, theo dữ liệu sơ bộ, chiếc SUV nhãn hiệu Toyota Sequoia do Kuzmenko điều khiển đã va chạm với một chiếc GAZ-53 tại km 86 trên tuyến cao tốc "Kryvyi RihKropyvnytskyi". Ông đã qua đời vì bị thương nặng. Ông sau đó đã được đưa về Kryvyi Rih, nơi ban nhạc của ông vừa có buổi biểu diễn vào hôm trước đó. Những người khác trên xe đã được đưa đến bệnh viện ở Kryvyi Rih.

Tưởng nhớ

[sửa | sửa mã nguồn]

Tiểu hành tinh 291923 Kuzmaskryabin, được phát hiện tại Đài quan sát Thiên văn học Andrushivka vào năm 2006 được đặt tên để tưởng nhớ ông.[5] Ý nghĩa của tên tiểu hành tinh đã được Trung tâm Tiểu hành tinh công bố vào ngày 23 tháng 3 năm 2016 (MPC 99355).[6]

Sự nghiệp điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Diễn viên

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Evenings in khutir near Dykanka (2001) — Kuzma, a friend of Vakula (tên trong danh sách diễn viên là Andriy Kuzmenko).
  • Lesya+Roma (2006) (khách mời)
  • Carnival night at Inter (2006) 
  • Very New Year Cinema (2007)(khách mời)
  • Little Red Riding Hood (2009) — Blue Beard

Hình ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “На Дніпропетровщині у ДТП загинув співак Кузьма Скрябін” [Kuzma Skryabin, a singer, was killed in an accident in Dnipropetrovsk]. espreso.tv (bằng tiếng Ukrainian). 2 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  2. ^ Ukrainian pop star dies in car accident
  3. ^ “Последнее интервью Скрябина в Кривом Роге 1.02.2015” (bằng tiếng Russian). 1 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2015.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  4. ^ “Последнее интервью Кузьмы Скрябина 01.02.15” (bằng tiếng Russian). 1 tháng 2 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2015.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  5. ^ “291923 Kuzmaskryabin (2006 QW23)”. Minor Planet Center. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2019.
  6. ^ “MPC/MPO/MPS Archive”. Minor Planet Center. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2019.