J.League
J.League (
Mùa giải hiện tại: J1 League 2024 | |
Thành lập | 1992 |
---|---|
Quốc gia | Nhật Bản |
Liên đoàn | AFC |
Các hạng đấu | J1 League J2 League J3 League |
Số đội | 53 |
Cúp trong nước | Cúp Hoàng đế Yamazaki Nabisco Cup Fuji Xerox Super Cup |
Cúp quốc tế | AFC Champions League Elite |
Đội vô địch hiện tại | J1: Vissel Kobe (lần thứ 1) J2: Machida Zelvia (lần thứ 1) J3: Ehime FC (lần thứ 1) (2023) |
Đội vô địch nhiều nhất | J1: Kashima Antlers (8 lần) J2: Hokkaido Consadole Sapporo (3 lần) J3: Blaublitz Akita (2 lần) |
Đối tác truyền hình | SKY PerfecTV! |
Trang web | Trang chủ |
Lịch sử
sửa- Đối với giải đấu trước khi thành lập giải chuyên nghiệp năm 1993, xem Japan Soccer League.
- Đối với lịch sử J2 League, xem J2 League#Lịch sử.
Các giai đoạn của J1
sửaTrước khi thành lập giải chuyên nghiệp (1992 trở về trước)
sửaTrước khi thành lập J.League, giải đấu cấp câu lạc bộ cao nhất là Japan Soccer League (JSL), nơi bao gồm các câu lạc bộ nghiệp dư.[8][9] Mặc dù đạt được một vài tiếng vang trong những năm cuối 60 đầu 70 (khi đội tuyển quốc gia Nhật Bản giành huy chương đồng tại Mexico 1968), JSL đi xuống trong những năm 80, theo tình hình chung trên toàn thế giới. Có rất ít cổ động viên tới sân, sân đấu thì không đạt đủ chất lượng, còn đội tuyển quốc gia Nhật Bản đã không còn ngang hàng với các cường quốc châu Á. Để nâng cao chất lượng sân chơi quốc nội, cố gắng thu hút người hâm mộ hơn, và tăng cường sức mạnh của đội tuyển quốc gia, Liên đoàn bóng đá Nhật Bản (JFA) đã quyết định thành lập một giải đấu chuyên nghiệp.
Giải bóng đá chuyên nghiệp, J.League được thành lập năm 1992, với tám câu lạc bộ từ JSL Hạng Nhất, một đội từ Hạng Hai, và câu lạc bộ mới thành lập Shimizu S-Pulse. Trong thời gian ấy, JSL đổi tên và trở thành Japan Football League, một giải bán chuyên. Dù vậy J.League chỉ chính thức khởi tranh vào năm 1993, giải Yamazaki Nabisco Cup được tổ chức cho mười đội vào năm 1992 để chuẩn bị cho mùa bóng đầu tiên.
Mùa giải mở đầu và quảng bá J.League (1993–1995)
sửaJ.League chính thức khởi tranh mùa giải đầu tiên với 10 câu lạc bộ vào ngày 15 tháng 5 năm 1993 khi Verdy Kawasaki (hiện tại là Tokyo Verdy) tiếp đón Yokohama Marinos (hiện tại là Yokohama F. Marinos) trên Sân vận động Quốc gia Kasumigaoka.
Giai đoạn sau (1996–1999)
sửaMặc dù thành công trong giai đoạn ba năm đầu, đến đầu năm 1996 lượng khán giả tụt dốc nhanh. Năm 1997 lượng khán giả trung bình là 10,131, so với 19,000 năm 1994.
Thay đổi cấu trúc giải đấu và thể thức thi đấu (1999–2004)
sửaCác nhà quản lý của giải đấu cuối cùng nhận ra rằng họ đã đi theo hướng sai. Để giải quyết vấn đề, họ đã đưa đến hai giải pháp.
Đầu tiên, họ công bố Tầm nhìn một trăm năm J.League, với mục đích toàn Nhật Bản tới năm 2092 có 100 câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp. Họ cũng khuyến khích các câu lạc bộ để thúc đẩy bóng đá hoặc những vấn đề không phải bóng đá như liên quan đến thể thao hay các hoạt động y tế, để có được tài trợ địa phương, và để xây dựng mối quan hệ tốt với quê hương của họ ở cấp cơ sở. Họ tin rằng điều này sẽ cho phép các câu lạc bộ liên kết chặt chẽ với các thành phố hay thị trấn của họ và nhận được hỗ trợ từ chính quyền địa phương, các công ty, và cư dân ở đây. Nói cách khác, các câu lạc bộ sẽ có thể dựa vào người dân địa phương, chứ không phải là nhà tài trợ lớn của quốc gia.
Thứ hai, cấu trúc của giải đấu đã được thay đổi rất nhiều trong năm 1999. Họ để chín câu lạc bộ bán chuyên nghiệp từ JFL và một câu lạc bộ từ J. League để tạo ra một hệ thống gồm hai hạng đấu. Giải bóng đá cấp cao nhất là J.League Hạng 1 (J1) với 16 câu lạc bộ trong khi J.League Hạng 2 (J2) đã được đưa ra với mười câu lạc bộ vào năm 1999. Hạng đấu thứ hai Japan Football League (cũ), bây giờ đã trở thành hạng đấu thứ ba Japan Football League.
Ngoài ra, cho đến năm 2004 (với ngoại lệ là mùa 1996), mùa giải J1 được chia thành hai. Vào cuối mỗi mùa giải, nhà vô địch từ mỗi lượt sẽ thi đấu một trận chung kết hai lượt để xác định đội vô địch chung cuộc của cả mùa giải. Júbilo Iwata vào năm 2002, và Yokohama F. Marinos vào năm 2003, giành ngôi cả hai "lượt" của mùa giải, vì thế không diễn ra trận chung kết. Đây là một phần lý do khiến giải đấu bãi bỏ hệ thống phân chia mùa giải từ năm 2005.
Thể thức châu Âu & AFC Champions League (2005–2008)
sửaGiai đoạn hiện tại (2009–2014)
sửaTương lai (2015–)
sửaCác mốc thời gian
sửaNăm | Sự kiện quan trọng | # J | # ACL | Xuống hạng |
---|---|---|---|---|
1989 |
|
|||
1990 |
| |||
1992 |
| |||
1993 |
|
10 | ||
1994 |
|
12 | ||
1995 |
|
14 | ||
1996 |
|
16 | ||
1997 |
|
17 | ||
1998 |
|
18 | ||
1999 |
|
16 | 2 | |
2000 | 16 | 2 | ||
2001 | 16 | 2 | ||
2002 | 16 | 2 | 2 | |
2003 |
|
16 | 2 | |
2004 |
|
16 | 2 | 0.5 |
2005 |
|
18 | 2 | 2.5 |
2006 |
|
18 | 2 | 2.5 |
2007 |
|
18 | 2 | 2.5 |
2008 |
|
18 | 2 + 1 | 2.5 |
2009 |
|
18 | 4 | 3 |
2010 | 18 | 4 | 3 | |
2011 |
|
18 | 4 | 3 |
Vị trí trong hệ thống bóng đá Nhật Bản
sửaCấp | Giải |
---|---|
I | J1 League 18 CLB |
II | J2 League 22 CLB |
III | J3 League 12 CLB |
Các giải thưởng J.League
sửa- Huấn luyện viên xuất sắc nhất năm
- Cầu thủ xuất sắc nhất năm
- Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng
- Tân binh xuất sắc nhất
- Đội hình tiêu biểu
Đội hình kỷ niệm 20 năm J.League
sửaTham khảo
sửa- ^ “J-League History Part 1: Professional football begins in Japan”. Goal.com. ngày 9 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2013.
- ^ “J-League History Part 2: Verdy Kawasaki dominates the early years”. Goal.com. ngày 9 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2013.
- ^ “J-League History Part 3: Growing pains emerge on the road to the 2002 World Cup”. Goal.com. ngày 9 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2013.
- ^ “J-League History Part 4: Exporting Talent”. Goal.com. ngày 9 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2013.
- ^ “J-League History Part 5: Expansion, success, and a bright future”. Goal.com. ngày 9 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2013.
- ^ “Tokyo Journal; Japan Falls for Soccer, Leaving Baseball in Lurch - New York Times”. Nytimes.com. ngày 6 tháng 6 năm 1994. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Japan Wages Soccer Campaign”. CSMonitor.com. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Football finds a home in Japan”. FIFA.com. ngày 2 tháng 12 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2013.
- ^ “When Saturday Comes - How Japan created a successful league”. Wsc.co.uk. ngày 18 tháng 7 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2013.
Liên kết ngoài
sửa- Trang chủ Lưu trữ 2021-01-19 tại Wayback Machine (tiếng Anh)
- Facebook chính thức (tiếng Việt)
- Twitter chính thức (tiếng Anh)
- Instagram chính thức (tiếng Nhật)
- Kênh YouTube chính thức (tiếng Nhật)